Trong năm hình thức trên, có lẽ phổ biến nhất từ trước đến nay là kiểu viết theo kiểu chuyên luận hay bài luận. Khi đối diện với một cuốn sách triết học, độc giả cũng không còn cách nào khác là phải đọc nó, nghĩa là suy nghĩ về nó. Đây là những từ được dùng để gọi tên các thực thể hình học mà Euclid đã định nghĩa.
Cuộc tranh luận này có thể rất phức tạp và người đọc có nhiệm vụ phải tìm hiểu và sắp xếp nó có trật tự và rõ ràng ngay cả khi không tác giả nào làm việc đó. (3) Nếu có bất cứ sự vận động nào trong một cuốn sách mô tả thì đó là sự vận động của lý luận, từ các luận chứng, lý lẽ đến kết luận. Chỉ ra khía cạnh phân tích và giải thích chưa hoàn chỉnh của tác giả.
Có thể là do cấu trúc sách lộn xộn, các phần trong sách không được liên kết với nhau, một số phần không hợp lý, hoặc tác giả đã phóng đại quá nhiều khi sử dụng những từ ngữ thậm xưng, gây ra hàng loạt tình tiết khó hiểu. Nhờ đó, bạn nhận ra cuốn sách không còn gì để cho bạn thêm nữa. TỪ LÀ CÁC DẤU HIỆU - từ phải có nghĩa, không chỉ một mà nhiều nghĩa.
Tất nhiên, không ai có thể áp dụng cách đọc phân tích ngay từ khi bắt đầu đọc cuốn sách đầu tiên trong đời. Đơn giản cũng đồng nghĩa với việc thiếu các bộ phận. Nếu bạn muốn chơi bài tây, bạn không thể vặn vẹo lại luật chơi và nói rằng ba người thì tốt hơn là chơi đôi; nếu bạn muốn chơi bài brit thì bạn không thể tranh luận với luật chung rằng quân Q ăn quân J hoặc lá bài chủ cao nhất sẽ ăn được bất cứ quân bài nào khác.
Kiểu độc giả thứ hai không đặt câu hỏi và không có câu trả lời. Nhưng một cuốn sách thực hành có thể có nhiều thứ khác ngoài các quy tắc. Sau đó, trong quá trình đọc phân tích, bạn cần trả lời những câu hỏi về tính chân thực và tầm quan trọng của cuốn sách.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng những từ giống nhau tại những thời điểm, vị trí khác nhau, lại được sử dụng với nghĩa khác nhau. Nhưng tất cả chúng ta đều có thể học cách đọc hiệu quả hơn, để hiểu biết hơn bằng chính nỗ lực của bản thân. Bài thơ cũng viết về mối xung đột giữa tình yêu và thời gian, mặc dù từ thời gian không hề xuất hiện trong bài.
Kỹ năng trong giai đoạn thứ ba (giai đoạn cuối) phụ thuộc vào phép tu từ. Một số tác giả khác như Galileo hay Newton, những người sử dụng phương pháp hình học, cũng tiến hành theo cách của Euclid. Ví dụ, một người biết và am hiểu một số dữ kiện về lịch sử nước Mỹ, theo một luồng tư tưởng nào đó, có thể dễ dàng đọc để thu thập thêm thông tin và vẫn hiểu các thông tin theo cách tương tự.
Khi đọc một tác phẩm triết học, những gì chúng ta quan tâm chính là các câu hỏi triết học chứ không phải câu hỏi khoa học hay lịch sử. Một số tác giả thường giúp độc giả nhận biết những câu quan trọng bằng cách gạch chân các câu đó, hoặc nói rõ cho độc giả biết đây là một ý quan trọng, hay sử dụng dấu hiệu trên bản in khiến cho những câu hướng dẫn nổi bật hẳn lên. Các nhà báo thường đưa những thông tin có thật kèm theo những diễn giải, bình luận và phân tích.
Tác giả Gibbon đã viết một cuốn sách nổi tiếng về Đế chế La Mã, mang tên The Decline and Fall of the Roman Empire (Sự suy tàn và diệt vong của Đế chế La Mã). Tuy nhiên, đây đồng thời cũng là điểm bất lợi của văn phong này vì nó không hề mang tính trình bày. Bạn cứ đặt giả thuyết và sau đó xem điều gì xảy ra.
Như Aristotle đã nói hạnh phúc là chất lượng của toàn bộ cuộc đời. Đổi lại, họ cảm thấy hài lòng sự hài lòng khó có thể có được khi đọc các sách khác. Thứ nhất, bạn cần phải thừa nhận những cảm xúc mình đưa vào quá trình lập luận, hoặc phát sinh trong quá trình đó.